Với công nghệ tàu cao tốc của Nhật Bản, liên danh tư vấn cho rằng, loại tàu này được thiết kế động lực phân tán (tất cả các toa đều có máy kéo), sức chở lớn; tốc độ thiết kế tối đa 450km/h. Tàu của Nhật cũng được thiết kế chạy trên đường có nhiều đồi núi, đèo, dốc, hầm… nên chi phí đầu tư và bảo dưỡng cao hơn của Pháp.
Trong khi công nghệ của Pháp, tàu chạy được tối đa 575km/h, với động lực tập trung ở đầu máy và đuôi tàu (các toa khách không có máy), nên chi phí đầu tư bảo dưỡng thấp hơn của Nhật. Tuy nhiên, các tàu phải hoạt động ở điều kiện bằng phẳng, độ cua và dốc thấp… Hiện các nước dùng tàu động lực tập trung đang chuyển dần sang công nghệ động lực phân tán.
Từ các phân tích kỹ thuật tàu các nước khác như Đức, Ý, và cả các nước nhận chuyển giao công nghệ như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… Tư vấn đưa ra khuyến nghị Việt Nam nên sử dụng công nghệ tàu cao tốc của Nhật.
GS.TSKH Lã Ngọc Khuê cho rằng, hiện tàu điện từ với tốc độ cao chỉ Nhật và Trung Quốc có đoạn thí điểm, còn đa phần các nước chỉ sử dụng tàu tốc độ từ 300-400 km/h. “Công nghệ đang thí điểm chúng ta cũng không nên quá bận tâm, còn thế giới hiện nay và xu hướng tương lai vẫn là loại tàu chạy trên ray, tốc độ khoảng 300km/h. Chưa kể, tuyến Bắc – Nam tới tỉnh nào cũng phải có ga dừng đón trả khách, nên tốc độ có cao cũng không mấy ý nghĩa”, ông Khuê nói.
Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể cho hay, các nghiên cứu đều thiên về thiết kế đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam chỉ chuyên về vận chuyển khách, còn đường sắt hiện hữu được cải tạo chuyên chở hàng hóa.
Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam dự kiến dài 1.545km, đi qua 20 tỉnh thành, với 23 nhà ga, tổng mức đầu tư 58,7 tỷ USD. Nếu được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 10/2019, đoạn Hà Nội – Vinh và TPHCM – Nha Trang sẽ thực hiện từ năm 2026, đưa vào khai thác năm 2032. Các đoạn còn lại sẽ được tiếp tục xây dựng từ năm 2035, khai thác toàn tuyến từ 2040 – 2045. Tốc độ khai thác với 2 đoạn tuyến trước là 200km/h, khi thông toàn tuyến, tốc độ sẽ là 350km/h.
Lê Hữu Việt
Nguồn: tienphong.vn